Ông sinh ngày
27/2/1925, một ngày rất có ý nghĩa với ông vì có sự trùng hợp kỳ lạ: đúng 30
năm sau, ngày 27/2/1955, Bác Hồ gửi thư cho cán bộ y tế rồi được Nhà nước lấy
làm ngày Thầy thuốc Việt Nam để kỷ niệm hàng năm. Ðó là Giáo sư - Viện sĩ
Nguyễn Duy Cương - nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế.
Ông học dược từ đầu năm 1944. Hòa vào
khí thế sục sôi trong cả nước, ông đã xếp bút nghiên, cầm gậy tầm vông cùng các
bạn sinh viên nhiệt tình tham gia Cách mạng Tháng 8, lật đổ cường quyền rồi gia
nhập đoàn quân vào chiến khu Đồng Tháp Mười chống Pháp. Tuy mới là sinh viên
Dược năm thứ 2, tập tọe bước vào nghề mà năm 1947 ông đã “lớn mật” thành lập
phòng bào chế thuốc đầu tiên ở Nam Bộ. Ngay từ những ngày đầu đầy khó khăn, ông
đã được thầy dạy thực hành là tiến sĩ dược khoa Nguyễn Huy và dược sĩ hạng nhất
Phạm Thị Yên (lúc đó chưa có Trường đại học Dược) dạy về đạo đức, nghĩa vụ của
người dược sĩ và cách quản lý thuốc men, phát triển cây, con thuốc.
Năm 1948, ông gặp BS. Phạm Ngọc Thạch ở
Bangkok, Thái Lan cũng được căn dặn phải quan tâm đến “cây con thuốc vì đó là
hướng đi độc đáo của ta”. Suốt 9 năm chống Pháp, được sự chỉ đạo của BS. Nguyễn
Văn Hưởng - Giám đốc Sở Y tế quân dân y Nam Bộ, với cương vị Phó phòng Dược
khoa, ông cùng TS. Bùi Quang Tùng (Trưởng phòng) và Phó phòng Nguyễn Kim Phát
tổ chức sản xuất và quản lý thuốc trong điều kiện thiếu thốn, đầy khó khăn gian
khổ của chiến trường Nam Bộ lúc đó. Sau khi tập kết ra Bắc, ông và 2 đồng môn
Phạm Văn Sở, Nguyễn Kim Phát được Bộ Y tế cho phép thi đặc cách lấy bằng Dược
sĩ hạng nhất (lúc đó chưa có bằng Đại học Dược). Cũng từ đó, ông chuyên tâm đi
sâu vào việc quản lý công tác dược và quản lý ngành dược.
Từ năm 1960 - 1969, ông được phân công
phụ trách Vụ Kế hoạch, Bộ Y tế. Thời gian này, ông đã sát cánh cùng các dược sĩ
Đỗ Hữu Thế, Nguyễn Văn Triển, Trần Văn Luân, Lê Quang Hợp điều hành toàn bộ kế
hoạch về dược và vật tư của Bộ. Năm 1966, ông được sang Liên Xô 3 tháng nghiên
cứu xây dựng kế hoạch y tế và dược phẩm. Nhờ những kiến thức đó, ông được phân
công giảng dạy các phần kế hoạch, thống kê ở hai trường Đại học Y và Đại học
Dược Hà Nội.
Đầu năm 1970, được Trung ương cử vào
miền Nam, đến nơi, ông được Khu ủy Sài Gòn - Gia Định giao nhiệm vụ hoạt động
“trí vận” trong nội thành. Với tư cách Phó ban Mặt trận trí vận khu Sài Gòn -
Gia Định, ông vận động và tập hợp đội ngũ trí thức trong nội thành Sài Gòn đi
theo cách mạng và cuối năm 1974, ông thành lập Hội Trí thức yêu nước, tiền thân
của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật TP.HCM ngày nay. Ngoài việc vận động
trí thức, ông dành thời gian nghiên cứu, tổ chức và hoạt động 2 ngành y - dược
của Mỹ và của chế độ Sài Gòn; tiếp xúc với nhiều bác sĩ, dược sĩ của chế độ cũ
nên khi thành phố được giải phóng, ông đã cung cấp nhiều tư liệu quý cho lãnh
đạo giúp cho việc tiếp quản ngành được thuận lợi.
Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, ông được cử làm Tổng Thư ký UBNDCM thành phố Sài Gòn - Gia Định kiêm Cục
trưởng Cục Quản lý dược. Ông đã cùng BS. Võ Cương (Mười Năng), Phó ban Dân y
miền Nam chỉ đạo trực tiếp việc tiếp thu các cơ sở dược của chế độ cũ. Năm
1976, ông được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Y tế. Chấp hành quyết định này nhưng muốn
giữ ông lại TP.HCM, đồng chí Võ Văn Kiệt - Chủ tịch UBND thành phố lúc bấy giờ
đã cho ông chuyển sang kiêm nhiệm chức Giám đốc Sở Y tế thành phố. Ông trở
thành người đầu tiên là dược sĩ làm Giám đốc Sở Y tế - điều mới lạ chưa hề có
tiền lệ. Với kinh nghiệm phong phú trong công tác quản lý nên trong thời gian làm
Giám đốc Sở Y tế, ông đã làm được nhiều việc như: Đề nghị được Thành ủy và Bí
thư Võ Văn Kiệt cho phép nhận tất cả bác sĩ, dược sĩ của chính quyền cũ đang
còn tập trung học tập được lần lượt trở về để Sở Y tế giao công việc. Ông đã
cùng với ông Dương Đình Thảo - Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin và Ban Tổ chức
thành ủy đề nghị và được thành phố chấp thuận hỗ trợ hằng tháng thêm một số
tiền cho trí thức khó khăn, giúp họ yên tâm công tác.
Ông đề nghị và được UBND thành phố cho
phép thành lập Hội Y Dược học thành phố (1979) nhằm tập hợp và đoàn kết trí
thức y - dược thuộc mọi nguồn (quân - dân, mới - cũ, trong - ngoài Đảng) về
thành phố, nhanh chóng sắp xếp lại tổ chức và bố trí công tác cho dược sĩ, xóa
bỏ “chợ trời” về dược; cho thành lập nhà thuốc hợp tác giữa phường và tư nhân;
cho phép các bác sĩ lớn tuổi ở lại được mở phòng mạch tư, giải quyết được tình
trạng quá tải của các bệnh viện trong thành phố.
Mặt khác, ông cho đẩy mạnh việc sản
xuất thuốc men đi đôi với phát động phong trào trồng cây thuốc ở các cơ sở y
tế; thành lập và phát triển trạm dược liệu; sản xuất một số thành phẩm từ dược
liệu... góp phần làm hạ “cơn sốt” thiếu thuốc. Ông còn đề nghị và được UBND
thành phố và Cục Hải quan đồng ý cho thân nhân được nhận thuốc men và quà của
kiều bào nước ngoài, nhất là ở Pháp gửi về giúp gia đình vừa có thuốc dùng vừa
tăng thu nhập, đỡ khó khăn.
Năm 1981, ông thôi chức Giám đốc Sở Y
tế TP.HCM, ra Hà Nội làm Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế. Tháng 6/1982, BS. Vũ
Văn Cẩn mất, BS. Đặng Hồi Xuân lên thay. Để đảm bảo thực hiện xuyên suốt chiến
lược xây dựng một ngành dược độc lập và tự chủ, Bộ trưởng Đặng Hồi Xuân đã đề
cử ông kiêm nhiệm chức Tổng Giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp Dược Việt Nam. Ông
đã hòa mình với tập thể mới, phấn đấu không mệt mỏi, vượt mọi khó khăn, gắn bó
với anh chị em trong ngót 10 năm. Nhờ đó đã thực hiện được một số chuyển hướng
như: phát triển nguồn dược liệu, chủ yếu là cây thuốc. Đây là một hướng cực kỳ
quan trọng được Bộ Y tế đề ra. Vì vậy, đã có 2 xí nghiệp và 2 công ty chuyên
doanh ra đời đảm trách nhiệm vụ này. Hướng thứ hai quan trọng không kém là từ
nhiều năm trước, mọi việc xuất nhập dược phẩm đều do Bộ Ngoại thương đảm nhận
thông qua Công ty Khoáng sản nên Bộ Y tế thường bị động. Ông đã kiên trì thảo
luận, thuyết phục và kiến nghị, cuối cùng được phép của Chính phủ chuyển toàn
bộ công tác xuất nhập thuốc về Bộ Y tế.
Từ khi có đường lối đổi mới, dựa trên
cơ sở hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ông đã đề ra 4 điểm về ngành dược và đã
được sự đồng tình, cho phép từng bước chỉ đạo của Bộ trưởng:
1. Cho phép các dược sĩ mở nhà thuốc
tư;
2. Thành lập các công ty cổ phần;
3. Thành lập các công ty TNHH;
4. Cho ngành dược được thành lập Hội
hành nghề.
Để tóm tắt cuộc đời hoạt động cách mạng
từ tháng 8/1945 đến lúc nghỉ hưu (năm 1991), ông có đôi lời bộc bạch như sau: Sau
khi nghỉ hưu, tôi còn đau đáu một điều: BS. Phạm Ngọc Thạch, vị Bộ trưởng Y tế
đầu tiên của nước ta, người thầy của chúng tôi về lý luận y và dược, đã từng
nói: “Theo con đường dược liệu, nước ta có cơ hội đóng góp nhiều vị thuốc độc
đáo cho thế giới và có chỗ đứng vẻ vang. Nhưng điều cơ bản là phải biết
quản lý và chỉ đạo”. Còn BS. Nguyễn Văn Hưởng cũng là Bộ trưởng Bộ Y tế, một
trong những nhà tổ chức tài năng của ngành đã từng trình bày nguyện vọng thiết
tha của mình về việc xây dựng một nền y dược học độc lập và tự chủ. Tiếp thu
những tư tưởng chỉ đạo hết sức sáng suốt và đúng đắn đó, tôi đã suốt đời tận
tụy hoạt động cho ngành y dược Việt Nam bằng cách thể hiện sao cho đúng với y
đức và hợp với hoàn cảnh nước ta.
Một việc làm nữa của ông sau khi nghỉ
hưu cũng vô cùng có ý nghĩa là: Xuất bản tạp chí Thuốc&Sức khỏe. Ngoài ra,
năm 2002, Viện Hàn lâm Quốc gia Dược học của Pháp bầu ông làm Viện sĩ.
Hiện nay, bước vào tuổi 86, ông vẫn còn
đảm đương hai nhiệm vụ rất quan trọng là: Chủ tịch Hội Dược học Việt Nam và
Tổng Biên tập bán nguyệt san Thuốc&Sức khỏe.
Do có những thành tích đặc biệt xuất
sắc đối với ngành y dược Việt Nam nên ông đã được Chủ tịch nước phong tặng danh
hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới theo Quyết định số 1061/2006/QĐ-CTN. Đó
là thành quả thật xứng đáng với nỗ lực lao động kiên trì và không mệt mỏi trong
suốt cuộc đời cống hiến của ông!
Tạ Lưu (SKĐS)
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaWelcome to Free Ebooks Download for Kindle Website. At here you can get many ebook.
Trả lờiXóa